Tăng Thời Gian Làm Thêm Giờ – Tích Cực hay tiêu cực
Đại dịch Covid-19 đã tác động tiêu cực lên tình hình sản xuất, kinh doanh của Việt Nam từ đầu năm 2019 đến nay, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (“BLĐTBXH”) vào tháng 9/2021, đã đề xuất việc tăng thời gian làm thêm giờ so với quy định hiện hành nhằm giúp doanh nghiệp (“DN”) phục hồi sản xuất, kinh doanh[1]. Khi đề xuất này đưa ra, các nhà làm luật và DN cũng như người lao động (“NLĐ”) đã thảo luận về việc có nên tăng thời gian làm thêm giờ không.
Mới đây, BLĐTBXH vừa có kiến nghị Chính phủ trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết về số giờ làm thêm trong 1 tháng và số giờ làm thêm trong 1 năm không quá 300 giờ và không giới hạn nhóm ngành, nghề, công việc hoặc các trường hợp quy định tại Bộ luật Lao động 2019[2].
Thời gian làm thêm giờ theo pháp luật lao động hiện hành
Hiện nay, số giờ làm thêm của NLĐ là không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong 01 ngày; nếu DN quy định thời giờ làm việc bình thường theo tuần thì tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không được quá 12 giờ/01 ngày; không quá 40 giờ/01 tháng[3]. Ngoài ra, phải bảo đảm số giờ làm thêm không quá 200 giờ/01 năm. Bên cạnh đó, chỉ đối với một số trường hợp đặc biệt mà DN có thể tổ chức cho NLĐ làm việc không quá 300 giờ/01 năm bao gồm[4]: Sản xuất, gia công xuất khẩu sản phẩm hàng dệt, may; Sản xuất, cung cấp điện; Trường hợp giải quyết công việc cấp bách, không thể trì hoãn do tính chất thời vụ, …
Ngoài ra, theo quy định hiện hành, để áp dụng thời gian làm thêm giờ không quá 300 giờ/01 năm thì DN còn phải được NLĐ đồng ý đối với việc làm thêm giờ và phải thông báo bằng văn bản cho các Sở Lao động Thương binh và Xã hội (“SLĐTBXH”).
Tăng giờ làm thêm có lợi ích gì?
Lợi ích cho DN
Trước hết, việc tăng giờ làm thêm có khả năng mang lại lợi ích cho DN trong việc gia tăng năng suất lao động, bù đắp sự sụt giảm lực lượng lao động thời kỳ hậu đại dịch Covid-19, giảm chi phí, giúp DN thoát gánh nặng tuyển dụng và đáp ứng yêu cầu của khách hàng trong giai đoạn phục hồi. Bên cạnh đó, các DN cũng có thể huy động NLĐ làm thêm giờ trong những trường hợp DN cho rằng mình có nhu cầu nhân lực để phục vụ sản xuất, kinh doanh kịp thời mà không cần thông qua thủ tục phức tạp và tốn thời gian như thông báo cho cơ quan quản lý lao động cấp Tỉnh như phân tích ở trên.
Lợi ích đối với NLĐ
Về phía NLĐ, ngoài việc làm thêm giờ theo sự huy động của DN, NLĐ cũng có thể chủ động đăng ký làm thêm giờ theo nhu cầu công việc của mình và nhận sự phê duyệt từ DN. Nếu làm thêm giờ thì NLĐ đương nhiên sẽ được hưởng mức lương làm thêm giờ theo quy định, góp phần tăng thêm thu nhập, đặc biệt là đối với NLĐ có thu nhập thấp và trung bình.
Tuy nhiên, việc tăng giờ làm thêm có nhiều tiêu cực hơn là tích cực
Về bản chất, việc làm thêm giờ xuất phát từ sự thỏa thuận giữa các bên. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc “tự nguyện” của NLĐ chỉ mang tính tương đối. Với vị thế là bên yếu thế hơn trong mối quan hệ lao động, trong một số trường hợp nhất định, NLĐ đồng ý làm thêm giờ theo sự huy động của DN chứ NLĐ không hoàn toàn tự nguyện để tránh hậu quả tiêu cực cho NLĐ khi làm việc tại DN như ảnh hưởng về việc thăng tiến về chức vụ, lương, thưởng, … Ngoài ra, DN cũng có thể lợi dụng việc này để huy động NLĐ làm thêm giờ đến mức tối đa và không tuyển dụng NLĐ mới để tránh các nghĩa vụ về báo cáo lao động, đóng thuế thu nhập cá nhân và các loại bảo hiểm xã hội bắt buộc cho NLĐ.
Hơn nữa, theo quy định hiện hành đối với thời gian làm thêm giờ, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng khó có thể quản lý được tình trạng huy động làm thêm giờ của DN. Trên thực tế, mặc dù trước khi huy động NLĐ làm thêm từ 200 giờ đến 300 giờ trong 01 năm thì phải thông báo cho SLĐTBXH, một số DN đã không thông báo hoặc không thực hiện đúng cam kết với SLĐTBXH khi tổ chức làm thêm giờ.
Bên cạnh đó, đối với thời gian làm thêm giờ như quy định hiện nay, nếu làm thêm giờ ở mức tối đa, tức là liên tục trong 12 tháng thì trung bình mỗi tháng NLĐ phải làm thêm xấp xỉ 17 giờ. Việc này ít nhiều sẽ ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của NLĐ, sự cân bằng cuộc sống cũng như ảnh hưởng đến các vấn đề xã hội khác như giáo dục con cái, tham gia các khóa học để nâng cao các kỹ năng nghề cần thiết giúp tăng năng suất làm việc.
Cần xem xét cẩn trọng trước khi han hành quy định cụ thể về việc tăng giờ làm thêm
Ai cũng biết, dưới tác động của đại dịch Covid-19, việc gia tăng năng suất lao động là cần thiết để phục hồi kinh tế. Do đó, việc tăng giờ làm thêm được nhận định chỉ là giải pháp tình thế nhằm giúp phục hồi kinh tế chứ không phải là giải pháp triệt để và lâu dài nhằm phục hồi và phát triển kinh tế. Theo đó, ngày 15/12/2021, BLĐTBXH đã ban hành Thông tư số 18/2021/TT-BLĐTBXH (“Thông tư 18”) quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đối với NLĐ làm các công việc sản xuất có tính thời vụ, công việc gia công theo đơn đặt hàng. Sự ra đời của Thông tư 18 tại thời điểm hiện tại đã giải quyết cơ bản và cấp bách về nhu cầu làm thêm giờ của các DN sản xuất có tính thời vụ trong các ngành nông – lâm – ngư – diêm nghiệp, DN sản xuất, kinh doanh đòi hỏi phải thu hoạch ngay hoặc sau khi thu hoạch phải chế biến ngay hoặc DN gia công hàng theo đơn đặt hàng, bị phụ thuộc vào thời điểm giao hàng.
BLĐTBXH hiện chưa ban hành thêm văn bản nào khác về việc điều chỉnh tăng thời gian làm thêm giờ đối với các DN kinh doanh trong những lĩnh vực khác nhưng có kiến nghị với Chính phủ trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc tăng thời gian làm thêm giờ lên không quá 300 giờ/năm mà không giới hạn nhóm ngành nghề, công việc. Khi xem xem xét có nên tăng thời gian làm thêm giờ theo kiến nghị của BLĐTBXH, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nên cân nhắc, khảo sát ở từng lĩnh vực, ngành nghề để xem liệu lĩnh vực nào cần tăng thời gian làm thêm giờ và điều chỉnh để bỏ luôn thủ tục thông báo làm thêm giờ như hiện nay trước khi điều chỉnh cho phù hợp. Còn đối với những ngành nghề khác cần cải thiện kiến thức và kỹ năng liên tục chẳng hạn như luật sư, kế toán, kỹ sư, …cần giữ nguyên thời gian làm thêm giờ như hiện tại. Vì đây là những ngành nghề cần có thời gian trống ngoài giờ làm việc để học hỏi thêm kiến thức và kỹ năng nghề qua việc tham gia các khóa học nhằm phục vụ công việc tốt hơn.
Kết luận
Không thể phủ nhận việc điều chỉnh tăng số giờ làm thêm có thể đáp ứng nhu cầu cấp thiết của DN. Điều này đặc biệt đúng trong bối cảnh số lượng NLĐ di chuyển về nông thôn gần đây và không muốn quay lại các thành phố lớn để làm việc hiện rất cao, dẫn đến việc thiếu hụt lực lượng lao động có tay nghề vì ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh Covid-19. Việc tăng số giờ làm thêm có thể giúp tăng thu nhập cho NLĐ và qua đó thu hút NLĐ quay trở lại làm việc. Tuy nhiên, việc tăng số giờ làm thêm có thể mang lại những hệ quả tiêu cực hơn cho nền kinh tế nếu được áp dụng có tính chất hệ thống và lâu dài. Do đó, BLĐTBXH nên xem xét và cân nhắc kỹ trước khi đưa ra quy định tiếp theo về việc làm thêm giờ. Bên cạnh đó, sau đại dịch Covid-19, NLĐ có khuynh hướng quan tâm nhiều đến sức khỏe hơn nên việc làm thêm giờ nhiều sẽ đồng nghĩa với việc ảnh hưởng đến sức khỏe của NLĐ cũng như sẽ tác động không nhỏ đến quyết định quay trở lại làm việc của họ.
[1] Điều 107 Bộ luật Lao động 2019 và Điều 60 Nghị định 145/2020/NĐ-CP
[2] Điều 107.3 Bộ luật Lao động 2019 và Điều 61 Nghị định 145/2020/NĐ-CP
[3] Đề xuất tăng giờ làm thêm không quá 300 giờ/năm cho mọi ngành nghề – Nhịp sống kinh tế Việt Nam & Thế giới (vneconomy.vn)
[4] https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/de-xuat-tang-gio-lam-them-khong-qua-300-gio-moi-nam-779308.html