Công Ty Luật Phước & Các Cộng Sự

Chọn Ngôn Ngữ:
+84 (28) 3622 3522

Góc Nhìn Pháp Lý Về Quyên Góp và Sử Dụng Tiền Từ Thiện

goc-nhin-phap-ly-ve-quyen-gop-va-su-dung-tien-tu-thien

Góc Nhìn Pháp Lý Về Quyên Góp và Sử Dụng Tiền Từ Thiện

Trong thời đại công nghệ số phát triển mạnh mẽ, có thể nhận thấy hầu hết các hoạt động xã hội đều được lan truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng. Điều này góp phần gia tăng sức ảnh hưởng của người nổi tiếng, đồng thời giúp những thông tin trước đây khó có thể lan truyền rộng rãi đến đại đa số người dân nay được biết đến nhanh chóng hơn. Những chiến dịch thiện nguyện, từ thiện do các tổ chức hoặc cá nhân thuộc cả khối nhà nước và tư nhân tổ chức ngày càng được nhiều người biết đến. Tuy nhiên, thu hút sự quan tâm nhiều nhất vẫn là những chiến dịch và chương trình từ thiện do các cá nhân, đặc biệt là người nổi tiếng, phát động. Đơn cử, trong những ngày gần đây, cộng đồng mạng đặc biệt quan tâm đến việc một người nổi tiếng trên mạng xã hội kêu gọi quyên góp từ thiện để giúp mẹ của một bệnh nhi có tiền chữa trị cho bé. Vấn đề đặt ra là, khi một khoản tiền lớn được trao cho một cá nhân – dù là người nổi tiếng – mà giữa mạnh thường quân (MTQ) và cá nhân này không có bất kỳ sự ràng buộc nào ngoài lòng tin không có căn cứ, thì liệu số tiền đó có được sử dụng đúng mục đích hay không? Hơn nữa, trách nhiệm pháp lý của người nổi tiếng trong trường hợp này theo quy định của pháp luật là gì? Đây chính là điều mà xã hội hiện đang đặc biệt quan tâm.

quy-dinh-phap-ly-ve-tu-thien

Nhận tiền từ thiện có phải nộp thuế thu nhập cá nhân không?

Theo quy định pháp luật hiện hành về thuế thu nhập cá nhân (TNCN), có 10 khoản thu nhập sẽ phải chịu thuế TNCN, bao gồm[1]:

  • Thu nhập từ hoạt động sản xuất – kinh doanh;
  • Thu nhập từ tiền lương, tiền công mà người lao động nhận được từ người sử dụng lao động;
  • Thu nhập từ đầu tư vốn;
  • Thu nhập từ chuyển nhượng vốn;
  • Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản;
  • Thu nhập từ trúng thưởng bằng tiền hoặc hiện vật;
  • Thu nhập từ bản quyền;
  • Thu nhập từ nhượng quyền thương mại theo quy định của Luật thương mại;
  • Thu nhập từ thừa kế là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng;
  • Thu nhập từ nhận quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng.

Đối với các khoản thu nhập từ quà tặng thuộc diện phải chịu thuế TNCN, quy định pháp luật hiện hành đều không đề cập đến khoản thu nhập từ quà tặng là tiền và tất nhiên cũng không đề cập đến tiền từ thiện[2].

Như vậy,  tất cả những khoản tiền từ thiện, cho dù đó là khoản tiền từ thiện mà người nhận từ thiện nhận được từ các quỹ từ thiện được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập hoặc công nhận, hoạt động vì mục đích từ thiện, nhân đạo, không nhằm mục đích thu lợi nhuận hay là các khoản tiền từ thiện mà người nhận từ thiện nhận được từ các cá nhân, tổ chức khác đều không thuộc đối tượng chịu thuế TNCN. Do đó, số tiền từ thiện mà mẹ bệnh nhi nhận được trong vụ việc này sẽ không bị tính thuế TNCN.

nhan-tien-tu-thien-co-phai-nop-thue-hay-khong

Trách nhiệm công khai minh bạch số tiền từ thiện được quy định thế nào

Những tranh cãi sẽ không có gì đáng nói nếu không xuất hiện những nghi vấn về tính minh bạch trong việc sử dụng số tiền quyên góp như tình hình trong những ngày qua. Bên cạnh đó, người mẹ của bệnh nhi cũng bị cho là mập mờ trong việc cập nhật tình trạng sức khỏe của con mình, không cung cấp các khoản chi phí điều trị của con. Điều này đã dẫn đến sự bức xúc và hoài nghi từ phía cộng đồng. Trước những quan điểm từ dư luận, mẹ của bệnh nhi cho rằng số tiền trên là tự nguyện quyên góp, không ai bị ép buộc, do đó không cần thiết phải sao kê hay giải trình.

Pháp luật Việt Nam cho phép cá nhân đứng ra vận động, tiếp nhận, quản lý, phân phối tiền từ thiện để hỗ trợ bệnh nhân hiểm nghèo, hoặc đồng bào gặp thiên tai, lũ lụt; với điều kiện những hành động này cần phải tuân thủ quy định pháp luật về để đảm bảo công khai, minh bạch, tránh hành vi trục lợi. Đồng thời, người đứng ra kêu gọi từ thiện cần có trách nhiệm công khai minh bạch số tiền từ thiện và kiểm soát số tiền từ thiện mà người đó kêu gọi được sử dụng đúng mục đích.[3]

Như vậy, pháp luật hiện hành chỉ quy định trách nhiệm, nghĩa vụ công khai, minh bạch đối với người đứng ra nhận tiền từ thiện mà không điều chỉnh đối với người nhận tiền từ thiện từ người kêu gọi từ thiện giúp. Tuy nhiên, trong trường hợp của mẹ bệnh nhi nêu trên, với vai trò là người nhận từ thiện để lo cho con, người nhận được tiền từ thiện cần phải thể hiện trách nhiệm của mình với xã hội hay cụ thể hơn là những người đã chung tay giúp đỡ con mình như công bố số tiền được nhận, công bố số tiền còn lại sau khi đã thanh toán chi phí lo cho con… để người khác nhận được các thông tin liên quan và được biết.

trach-nhiem-cong-khai-minh-bach-tu-thien

Người góp tiền từ thiện có quyền giám sát việc sử dụng tiền từ thiện hay không và quy định pháp luật điều chỉnh về hành vi trục lợi tiền từ thiện

Pháp luật hiện hành quy định về các hành vi bị cấm trong vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn đóng góp tự nguyện hỗ trợ khắc phục đời sống khó khăn của các cá nhân khác bao gồm báo cáo, cung cấp thông tin không đúng sự thật về nguồn tiền từ thiện và chiếm đoạt, phân phối, sử dụng sai mục đích nguồn tiền từ thiện để trục lợi[4].

Do đó, MTQ hoàn toàn có quyền giám sát việc sử dụng tiền, yêu cầu sử dụng tiền đúng mục đích, đúng cam kết của người nổi tiếng và mẹ của bệnh nhi trên. Trong trường hợp nghi ngờ có sự không trung thực, không minh bạch, MTQ có thể đề nghị cơ quan chức năng vào cuộc xác minh làm rõ để có kết luận, giải quyết vụ việc theo quy định của pháp luật.

Khi đó, tùy theo kết luận điều tra của cơ quan chức năng về tính chất và mức độ vi phạm của hành vi mà bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu xét thấy hành vi chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì chịu mức phạt hành chính, cụ thể phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản[5].

Trường hợp xét có sai phạm trong việc sử dụng tiền từ thiện sai mục đích thì hành vi này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản” theo Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 hiện hành. Khung hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến 3 năm, hoặc phạt tù từ 3 tháng đến mức cao nhất là 20 năm tù, tùy theo mức độ phạm tội và các hình phạt bổ sung về tiền và tịch thu tài sản.

Bên cạnh đó, có thể xét đến trường hợp mẹ của bệnh nhi ngay từ ban đầu đã lợi dụng bệnh tình của con mình để tạo thông tin không đúng sự nhằm tạo lòng tin kêu gọi từ thiện; hành vi này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015. Khung hình phạt từ phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm, hoặc phạt tù từ 3 tháng đến mức cao nhất là tù chung thân, tùy theo mức độ phạm tội và các hình phạt bổ sung về tiền và tịch thu tài sản.

truc-loi-tu-thien

Kết luận

Việc quyên góp làm từ thiện về bản chất là hành động đẹp, phù hợp với truyền thống tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách của dân tộc Việt Nam ta. Với nguyên tắc mọi sự kiện, quan hệ xã hội phát sinh đều phải được điều chỉnh bởi quy định pháp luật, do đó Chính phủ đã ban hành Nghị định 93/2021/NĐ-CP như là một hành lang pháp lý cho các hoạt động quyên góp triển khai từ thiện, nhất là đối với các cá nhân, đảm bảo quá trình vận động, quyên góp, triển khai thực hiện được minh bạch và hiệu quả, đảm bảo sự hỗ trợ của công chúng tới được những người có hoàn cảnh khó khăn. Tuy nhiên, Nghi định trên vẫn chưa điều chỉnh hoàn toàn các quan hệ xã hội trong hoạt động từ thiện khi mà các mối quan hệ này ngày càng phát triển và phát sinh nhiều tình huống mà pháp luật chưa bao quát hết. Quy định pháp luật hiện tại vẫn còn có những sự bất cập, hạn chế trong triển khai, làm cho một số hoạt động từ thiện bị bóp méo, lợi dụng, không đúng ý nghĩa, mục đích ban đầu.

[1] Điều 3 Nghị định 65/2013/NĐ-CP, được hướng dẫn bởi Điều 2 Thông tư 111/2013/TT-BTC

[2] Khoản 10, Điều 2 Thông tư 111/2013/TT-BTC

[3] Khoản 2 Điều 23 Nghị định 93/2021/NĐ-CP

[4] Khoản 2, 3 Điều 5 Nghị định 93/2021/NĐ-CP

[5] Điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP